Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, năm 1960, Mộc bản được chuyển từ Huế về Đà Lạt do chi nhánh Văn khố Đà Lạt quản lý. Mộc bản là những bản in chữ Hán khắc vào gỗ, kích thước trung bình 0,43m x 0,27m, dày từ 2 - 4 cm, mỗi tấm nặng chừng 300 - 400g.
Du khách sẽ thực sự ngỡ ngàng khi bước vào kho chuyên dụng lưu giữ tài liệu Mộc bản triều Nguyễn tại biệt điện Trần Lệ Xuân. Nơi đây đang lưu giữ trên 30.000 tấm Mộc bản được khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm (khắc ngược) dùng để nhân bản tài liệu nhằm phổ biến rộng rãi các chuẩn mực xã hội, điều luật bắt buộc thần dân phải tuân theo; lưu truyền công danh sự nghiệp của vua, chúa, các sự kiện, các biến cố lịch sử… hầu hết các bản thảo đều được Hoàng đế “Ngự lãm”, phê duyệt trước khi cho những người thợ tài hoa khắc lên gỗ.
Năm Tự Đức thứ hai (1849), triều Nguyễn đã cho dựng Tàng bản đường để bảo quản Mộc bản. Mộc bản, Châu bản và sách Ngự lãm là kho tư liệu quý, là nguồn sử liệu phong phú, chân xác về xã hội phong kiến triều Nguyễn. Hiện tại, Mộc bản đã được in dập ra giấy dó - bản gốc và bản dập Mộc bản đã được chỉnh lý hoàn chỉnh và ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý và phục vụ khai thác khối tài liệu quý hiếm này. Mộc bản triều Nguyễn, ngoài giá trị về mặt nội dung, mỗi tấm Mộc bản còn được đánh giá như một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.
Ngày nay, sau khi Mộc bản triều Nguyễn và các tài liệu lưu trữ được di chuyển từ Huế về Đà Lạt, Sài Gòn thì được sắp xếp theo trình tự gồm 9 vấn đề chính: Lịch sử, Địa lý, Chính trị - Xã hội, Quân sự, Pháp chế, Văn hóa - Giáo dục, Tôn giáo - Tư tưởng - Triết học, Ngôn ngữ văn tự, Văn thơ, Tồn nghi và được lưu giữ trong kho chuyên dụng bảo mật. Các cơ quan chức năng và Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV đang lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Mộc bản triều Nguyễn là di sản văn hóa thế giới.
Đến đây du khách sẽ có cơ hội hiểu biết thêm về kiến thức lịch sử dân tộc mà còn có thể tận mắt chứng kiến dấu ấn lịch sử từ ngày xưa còn lại.